Đại lễ Phật Đản 2556 năm nay (Rằm tháng Tư âm lịch, tức 5.5.2012)
Đức Phật ra đời
Cách đây trên 25 thế kỷ, tại một vương quốc nhỏ ở phía Bắc Ấn Độ vào một ngày trăng tròn tháng Vesak, có một sự kiện xảy ra làm thay đổi toàn thế giới, có một bậc vĩ nhân ra đời. Đó là Thái tử “Tất Đạt Đa” nghĩa là người đem đến điều tốt lành, sau này thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, con của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Maya, năm 563 trước Tây Lịch.
Lúc ấy khắp địa cầu tràn ngập niềm an lạc và hạnh phúc. Mọi người quên hết lo âu, xóa mọi hận thù, thương yêu lẫn nhau. Một số người nhìn thấy cầu vồng xuất hiện trên bầu trời cùng với những điềm lành kỳ diệu khác. Lúc bấy giờ những nhà tiên tri khắp nơi, nhất là ông già A Tư Đà là một ẩn sĩ sống ẩn dật ở trong rừng vắng và là một bậc danh sĩ tôn quý lúc bấy giờ đã đến bái kiến vua Tịnh Phạn và ông ta nói: “Tôi từ xa đến đây vì có dấu hiệu kỳ diệu mà tôi mới thấy gần đây. Những dấu hiệu này cho biết cậu bé trai mới sinh của ngài, sau này sẽ đạt được sự giác ngộ tinh thần vĩ đại, làm lợi ích cho tất cả mọi người. Cái trí tuệ vô cùng quý giá ấy là điều mà suốt đời tôi đang cố gắng để đạt được. Cho nên từ nơi xa xôi tôi vội vã đích thân đến thăm cậu bé.” Nói đến đây, A Tư Đà bật khóc làm Vua và Hoàng hậu rất ngạc nhiên, hồi hộp xen lẫn lo sợ. Không hiểu tại sao các nhà tiên tri, kể cả A Tư Đà cũng nói con trai của Bệ hạ có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, chắc chắn sau này lớn lên sẽ thành bậc vĩ nhân mà tại sao ông A Tư Đà lại khóc. Chắc có điều gì bất lành chăng?
A Tư Đà nói: “Không, thưa bệ hạ, không phải tôi khóc vì đã nhìn thấy dấu hiệu xấu nơi Thái tử mà một điều chắc chắn tôi nhìn thấy là sau này khi lớn lên Thái tử sẽ trở thành bậc vĩ nhân. Nếu con trai của Bệ hạ theo nghiệp cha thì thái tử sẽ trở thành một Chuyển Luân Thánh Vương vĩ đại nhất lịch sử. Thái tử sẽ cai trị cả một khu vực rộng lớn, đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người. Nhưng nếu Thái tử quyết định không làm vua thì tương lai Thái tử sẽ trở thành một bậc đại giác, một vị thầy cao quý hướng dẫn chúng sanh sống theo đạo lý yêu thương và tỉnh thức. Khi nhìn thấy cảnh khổ của cuộc đời, Thái tử sẽ lìa bỏ hoàng cung và đi tìm con đường chấm dứt mọi khổ đau. Rồi Thái tử sẽ đem những chân lý ấy để chỉ dạy cho bất cứ ai muốn lắng nghe.
Không, thưa Bệ hạ và Hoàng hậu. Tôi không khóc cho đứa trẻ mà chính tôi đang khóc cho tôi. Như ngài cũng đã biết, tôi đã trải qua toàn bộ cuộc đời để tìm chân lý, mong tìm ra con đuờng chấm dứt khổ đau. Và hôm nay, tôi đã gặp được Thái tử — người mà sau này sẽ chỉ dạy những điều mà tôi muốn học. Nhưng đến lúc Thái tử đủ trình độ để dạy thì có lẽ tôi đã chết rồi. Tôi không may mắn học được những lời Thái tử dạy trên cuộc đời này. Đó là lý do tai sao tôi buồn và khóc. Đối với Bệ hạ và Hoàng hậu thì không có gì đáng buồn cả. Hãy sung suớng lên vì mình có một người con là bậc vĩ nhân và vinh quang như thế.
16 năm sau, Thái tử đã trưởng thành và lấy vợ là nàng Yasodhara, sống đời sống vương giả và cực kỳ sang trọng trong cung điện. Nhưng bẩm tính của Thái tử đa sầu đa cảm. Khi nhận thấy thực trạng thống khổ của đời người chung quanh mình, bèn quyết tâm đi tìm phương cứu khổ cho bản thân và cho nhân loại.
Lúc Thái Tử bỏ nhà ra đi, chính là lúc mà vợ vừa hạ sanh người con trai đầu lòng và duy nhất là Rahula. Bấy giờ thái tử mới được 29 tuổi. 6 năm ròng rã ông lang thang đây đó ở khắp nơi thung lũng sông Hằng để cầu thầy học đạo và theo đủ mọi cách khổ hạnh cùng tu luyện của hầu hết các môn phái truyền thống mong tìm giải thoát. Nhưng không thỏa mãn, ông bỏ các giáo phái kia và tự mình ra đi tìm chân lý. Một đêm đang ngồi trầm mặc duới gốc cây bồ đề ông hốt nhiên đại ngộ. Bấy giờ ông mới 35 tuổi. Từ đó người ta gọi ông là Phật, nghĩa là giác ngộ, giác ngộ được cái nguồn gốc của đau khổ và sinh tử.
Sau khi đắc đạo, Phật thuyết pháp lần thứ nhất ở Cấp Cô Độc Viên, gần thành Benares ngày nay. Cho 5 nhà tu khổ hạnh, những người bạn cũ cùng đi tìm đạo như Ngài .
Ròng rã suốt bốn mươi chín năm Phật không ngớt đem Đạo Diệt Khổ dâng cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt nam nữ, già trẻ hay giai cấp sang hèn gì cả. Phật nhập diệt năm 80 tuổi ở Kusinanra. Trong đời sống của Phật Thích Ca, có 3 giai đoạn quan trọng tiêu biểu được tất cả một hệ thống giáo lý của Ngài:
Lúc thiếu thời. Khi xuất gia. Sau ngày đắc đạo.
Cuộc đời ấy có thể gọi là cuộc đời điển hình cho những ai quyết tâm đi vào con đường giải thoát, chứ không phải riêng gì của Thích Ca. Hay nói một cách khác: đời sống của Thích Ca chứng minh một cách hùng hồn giáo lý của ngài còn hơn tất cả các kinh luận của Phật Pháp.
Tóm lại, cuộc đời của Thích Ca Mâu Ni có thể gọi là cuộc đời điển hình của những người đi tìm giải pháp. Hơn nữa, nó minh chứng một cách linh động, hùng hồn tất cả giáo lý của ngài.
Đặc biệt ta nên lưu ý đến những điểm chính này của Đức Phật:
Phật là bậc: Đại Hùng – Đại Lực – Đại Từ Bi
Đại Hùng trong việc dám vứt bỏ ngôi vị cao sang tột bực, cả những quyến rũ xác thịt, đời sống vật chất để đi tìm con đường giải thoát.
Đại Lực trong việc không ỷ lại bất cứ một thế lực nào, một bậc chân sư nào để tìm chỉ dẫn, mà tự lực đi tìm giải thoát.
Đại Bi là suốt cuộc đời chỉ cầu giải thoát đau khổ cho toàn thể nhân loại, cho đến hơi thở cuối cùng .
Chúng ta đã xét qua ý nghĩa về sự đản sinh của Đức Phật, để thấy rõ rằng sự xuất hiện của Thế Tôn, vị giáo chủ của chúng ta, là một việc hy hữu ở đời. Cứ mỗi lần mùa Khánh Đản đến, người Phật Tử về chùa, nghe quý thầy nhắc lại về cuộc đời và những đức tính cao đẹp của Ngài, chúng ta mới biết rằng Ngài Đã trải qua vô lượng kiếp tu hành, cuối cùng mới thị hiện là thái tử Tất Đạt Đa ở Ấn Độ, sau thành Phật hiêu là Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một bậc vĩ nhân, Đã để lại một hình ảnh không bao giờ phai mờ trong lòng những người con Phật khắp năm châu bốn biển. Vì cuộc đời ngài quá vĩ đại và đẹp đẽ, nên từ xưa đến nay, biết bao người đã dùng mọi hình thức văn hóa để ca tụng cái toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ của ngài. Biết bao người đã nguyện noi gương Ngài, quên mình để phụng sự chúng sinh, hy sinh hạnh phúc riêng tư để lo cho hạnh phúc của nhiều người . Những sứ giả của Như Lai đã mang thông điệp của Đức Phật đi vào cuộc đời, làm cho con người hiểu được bản chất của kiếp sống là vô thường, là đau khổ, từ đó thúc giục con người sớm theo lời dạy của Ngài tu hành để được giác ngộ và giải thoát.
Tại sao Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này?
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: – Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ, nhưng trí tuệ đã bị chôn vùi bởi hàng hàng, lớp lớp vô minh.
Đức Phật ra đời là để chỉ bày cho chúng ta một con đường hạnh phúc, một con đường an lạc và nhận diện được đâu là con đường hạnh phúc, đâu là con đường khổ đau, đâu là giá trị cao quý, đâu là không có giá trị ở trong cuộc sống của chúng ta.
Đức Phật ra đời Ngài đã khiến và dạy cho chúng sinh thành tựu được giác ngộ. Giác ngộ là giác ngộ ngay trong đời sống của chính mình, ngoài đời sống của chính mình ra không có đời sống giác ngộ nào để cho chúng ta đi tìm kiếm. Chúng ta có thể tìm kiếm là tìm kiếm giác ngộ ngay ở thân và tâm của chúng ta. Chúng ta có thể đi tìm giác ngộ ngay trong đời sống của chúng ta, chúng ta không thể vứt bỏ cách đi, cách đứng, cách nằm, cách ngồi, cách tiếp xúc giao tiếp hằng ngày của chúng ta mà có sự giác ngộ.
Đức Phật ra đời dạy dỗ, giáo hóa, dìu dắt, hướng dẫn khiến cho chúng ta và hết thảy chúng sinh đều sống cuộc đời như Đức Phật đã sống. Nghĩa là, Đức Phật đã sống như thế nào, Đức Phật biết như thế nào thì Ngài sống như thế đó, Ngài nói như thế nào, thì Ngài làm như thế đó.
Ngộ rồi chưa đủ, phải thể nhập với Phật tính đó và biểu hiện Phật tính đó trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Như vậy ngộ rồi thì phải nhập, mà nhập rồi thì phải xuất, nhập mà không xuất thì nghĩa nhập đó không thành. Bởi vì, nhập mà không xuất thì bí, cho nên nhập là phải xuất.
Tại sao Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, Ngài đi bảy bước trên hoa Sen? Bởi vì hoa Sen có một ý nghĩa đặc điểm là “Hoa rụng Sen thành, Hoa nở thì Sen hiện”. Nghĩa là, Đức Phật, dạy giáo pháp của Ngài, nếu chúng ta quyết tâm hành trì, thì sẽ có an lạc ngay, đó là “Hoa nở Sen hiện”!
Sự xuất hiện của Đức Phật trên hoa Sen để nói cho chúng ta thấy rằng, cái chết là bắt đầu của cái sống, cái sống đây là bắt đầu của cái chết. Sự xuất hiện cũng có nghĩa là bắt đầu của một sự ẩn khuất. Ngài ẩn khuất ở nơi thế giới Liên Hoa Đài Tạng thì Ngài có mặt ngay nơi thế giới Ta Bà này.
Thế thì, ngày hôm nay chúng ta làm lễ kỷ niệm Đức Phật ra đời, có phải rằng chúng ta chỉ biết nấu vài chén chè, vài dĩa xôi đặt lên bàn Phật không? và đặt trên bàn Phật với tâm hồn nào? Chúng ta đặt trên bàn Phật với tâm trạng một lữ khách đang thực tập khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến, ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri kiến thì chè, xôi đó cũng trở thành pháp lạc, cũng trở thành bồ đề. Trái lại, chúng ta đặt xôi, chè lên bàn Phật với cái tâm u mê, tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, tầm thường, hèn mạt, thì xôi, chè đó chỉ là những vật tầm thường.
Biểu tượng lá cờ Phật giáo
Lá cờ là biểu tượng thiêng liêng và mang một ý nghĩa rất quan trọng trong bất kỳ quốc gia hay tổ chức nào. Lá cờ Phật giáo tượng trưng cho ánh hào quang của chư Phật, cho tinh thần từ bi, bình đẳng và hòa hợp của cộng đồng Phật giáo thế giới. Cờ Phật giáo gồm năm sắc chính theo chiều dọc: xanh, vàng, đỏ, trắng, vàng cam; và một sắc tổng hợp theo chiều ngang. Năm sắc tượng trưng cho ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, huệ hàm chứa trong hào quang của chư Phật. Sắc tổng hợp mang ý nghĩa cho sự tổng hòa và hỗ tương của ngũ căn và là “tượng trưng lý viên dung, vô ngại của đạo Phật”.
Lá cờ Phật giáo là do Phật tử Henry Steel Olcott phác họa vào năm 1885. Ông nguyên là đại tá hải quân Hoa Kỳ. Sau khi từ giã quân ngũ, ông bắt đầu nghiên cứu triết học và tôn giáo phương Đông. Năm 1875, ông cùng với bà H. P. Blavatsky sáng lập Hội Thông Thiên, nhằm đề cao tinh thần dung hòa giữa các tôn giáo và góp phần xóa bỏ hệ thống giai cấp tại Ấn Độ. Trụ sở chính của Hội đặt tại Adyar, thành phố Chennai, miền Nam Ấn Độ.
Năm 1950, Hội nghị Phật giáo thế giới được nhóm họp tại thủ đô Colombo, Sri Lanka, từ ngày 25/5/1950 đến ngày 8/6/1950 nhằm “đi đến một tổ chức Phật giáo thế giới có mục đích thống nhất các lực lượng Phật giáo trên hoàn cầu, tìm những phương tiện thiết thực để giúp các Phật tử thế giới, giải quyết những vấn đề quan hệ đến nhân sinh.” Hội nghị đã quy tụ 26 đoàn đại biểu đại diện của 26 nước Phật giáo tham dự. Đoàn Phật giáo Việt Nam do Hòa thượng Thích Tố Liên làm trưởng đoàn. Sau 14 ngày thảo luận, Hội nghị đã thống nhất thành lập Hội Liên Hữu Phật giáo thế giới. Toàn hội nghị đã tuyên thệ rằng: “Chúng tôi với các Phật tử sẽ phải cố gắng đem mình làm những tấm gương trong sạch sáng suốt giữ nền tín ngưỡng Phật giáo để làm cho tinh thần Phật giáo chung đúc thành một khối sáng sủa mạnh mẽ khắp hoàn cầu.” Và lá cờ năm sắc được đại hội công nhận là Phật kỳ của Phật giáo thế giới. Từ đó, ngọn cờ này chính thức trở thành Phật kỳ của cộng đồng Phật giáo thế giới.
Sau khi tiếp nhận lá cờ Phật giáo từ Hội Liên Hữu Phật giáo thế giới, HT. Thích Tố Liên cùng Giáo hội Tăng già Bắc Việt long trọng tổ chức Lễ Thượng Kỳ nhân ngày Phật đản Phật lịch 2514 (năm 1951), tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Cùng trong năm 1951, Đại hội Phật giáo toàn quốc được triệu tập tại chùa Từ Đàm (Huế) từ ngày 6 tháng 5 đến ngày 9 tháng 5. Phái đoàn đại diện Giáo hội Tăng già Bắc Việt và Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt do Hòa thượng Mật Ứng và Hòa thượng Trí Hải làm trưởng đoàn. Đoàn đại biểu Giáo hội Tăng già Trung Việt và Hội Phật học Trung Việt do Hòa thượng Tịnh Khiết và Hòa thượng Trí Quang dẫn đầu. Đoàn đại biểu Giáo hội Tăng già Nam Việt và Hội Phật học Nam Việt do Hòa thượng Đạt Thanh và Hòa thượng Thiện Hòa dẫn đầu. Sáu đoàn đại biểu đại diện ba miền đã thống nhất thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam, bầu Ban quản trị và suy tôn Hòa thượng Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ. Đại hội cũng đã thống nhất công nhận lá cờ của Hội Liên Hữu Phật giáo thế giới là Phật kỳ của Phật giáo Việt Nam. Và sau đó, Lá cờ Phật giáo được thiết trí trang trọng tại Đại hội Tăng Già toàn quốc tổ chức tại chùa Quán Sứ vào ngày 07 tháng 9 năm 1952. Đại hội bầu cử một Tổng Trị sự và suy tôn Hòa thượng Thích Tuệ Tạng làm thượng thủ và tái khẳng định lá cờ năm sắc là Phật kỳ của Phật giáo Việt Nam.
Số lượng Phật tử
Hiện nay trên thế giới là khoảng từ 1.2 tỉ đến 1.6 tỉ. Số lượng nầy thì gần bằng số lượng tín đồ của hai tôn giáo lớn nhất thế giới là Hồi giáo và Thiên Chúa giáo [gồm Công giáo, Tin Lành, Anh giáo và Chính Thống giáo].
Bảng Tổng Kết: Dưới đây là bảng Tổng kết tương đối chính xác hơn, ghi chú số lượng Phật tử trên toàn thế giới [7/2009] sau khi đã thêm vào những dữ liệu ở trên (Bách phân số Phật tử trên tổng dân số quốc gia / vùng / châu lục được ghi trong ngoặc đơn):
Quốc gia/Vùng/Châu lục | Số Phật tử | (Bách phân) |
Trung Quốc (ước lượng “lạc quan”) | 1.070.893.447 | (80.00%) |
Trung Quốc (ước lượng “bi quan”) | 669.308.405 | (50.00%) |
Nhật Bản | 122.022.837 | (96.00%) |
Thái Lan | 62.626.649 | (95.00%) |
Ấn Độ | 37.913.134 | (3.25%) |
Tích Lan | 14.933.050 | (70.00%) |
Những nước Á châu khác | 280.209.398 | (21.00%) |
Á CHÂU (ước lượng “lạc quan”) | 1.588.598.515 | |
Á CHÂU (ước lượng “bi quan”) | 1.187.013.473 | |
Hoa Kỳ | 6.135.071 | (2.00%) |
Canada và các Quốc gia đảo Bắc Mỹ | 368.447 | ( 1.10%) |
BẮC MỸ | 6.503.518 | |
Đức Quốc | 905.657 | (1.10%) |
Pháp Quốc | 773.215 | (1.20%) |
Anh Quốc | 733.394 | (1.20%) |
Những nước Âu châu khác | 785.700 | (0.15%) |
ÂU CHÂU | 3.197.966 | |
CHÂU MỸ LATINH & NAM MỸ | 868.929 | (0.15%) |
ÚC CHÂU | 618.752 | (1.80%) |
PHI CHÂU | 194.550 | (0.02%) |
TOÀN THẾ GIỚI (ước lượng “lạc quan”) | 1.599.982.230 | Khoảng 1.6 tỉ |
TOÀN THẾ GIỚI (ước lượng “bi quan”) | 1.198.397.188 | Khoảng 1.2 tỉ |
Hôm nay, một lần nữa kỷ niệm ngày Phật Đản, chúng ta đem hết tâm thành quy ngưỡng và đảnh lễ Ngài. Chúng ta thấy mình rất có phước duyên nên mới được làm người, được thấm nhuần dòng sữa pháp, được chư Tăng Ni huớng dẫn tu hành, được làm bạn đạo cùng những người hiền thiện. Chúng ta nguyện nhớ mãi hình ảnh ngài bước trên hoa sen khi mới ra đời, để noi gương Ngài cùng bước từng bước an lạc thảnh thơi trên những bất ổn, cam go, đau khổ của cuộc sống. Thân ngũ uẩn của chúng ta tuy ở trần thế, nhưng phải biết vươn lên không để bùn nhơ của ngũ dục làm ô nhiễm. Từ đó chúng ta sẽ góp phần thổi một luồng sinh khí mới vào cuộc đời, khiến mọi người cùng được an lạc và hạnh phúc. Đây là cách duy nhất để đền đáp ân nặng của Đức Bổn Sư vô cùng quý kính của chúng ta.
* Trang này được xem 5963 lần
Tám Cơ thân mến !
Rất cám ơn anh về bài biên soạn này, mình cũng để tâm nhiều đến thuyết pháp Phật Giáo nhưng nói thật là với hiểu biết vô cùng hạn hẹp về triết học nên triết lý Phật Giáo rất khó hiểu đối với mình, chỉ riêng phần từ ngữ thôi cũng đã gây khó khăn cho mình rất nhiều .
Triết lý Phật Giáo thật vô cùng sâu sắc, có thể nói rằng hầu như bao trùm thế giới khách quan tồn tại bên ngoài bản thân ta và cã những biến chuyển trong tâm hồn mổi người .
Theo mình biết thì ngày càng nhiều những triết gia phương tây nghiên cứu và say mê triết học đông phương và nhất là triết lý Phật Giáo, đối với họ triết lý Phật Giáo vẫn còn là khó hiểu huống chi là người bình thường như mình, có thể nói là chỉ có thể Ngộ được chứ không cầu được …….. mình thì chỉ cần thỉnh thoảng hiểu thêm một từ ngự trong đó là cũng đủ khoái chí rồi .
Một lần nữa cám ơn bạn hiền nhe !
Hi … Anh Đức Hiếu nè … thật khá khen cho anh nha … Sao hay vậy viết Lể Phục Sinh củng hay bây giờ viết về Phật pháp nghe củng suông tai … ghê vậy …??? Như vậy anh đang tín ngưởng đạo nào nhỉ … hi … hi … Theo Hoa thì anh theo phật giáo phải không …??? Cám ơn anh về bài viết hay này nhé … hi … hi …
K.Hoa, VTrúc thân mến.
Cám ơn lời khen tặng cuả hai bạn, thật ra thì tớ mới chập chửng tim hiểu về đạo Phật vaì năm gần đây.
Trong cuộc sống khi mình luôn thành công nhiều mặt, thì có lẻ trong chúng ta chẳng bao giờ nghỉ đến thế giới tâm linh….
Đến khi chúng ta bi vấp phải một cái gì đó! Có thể đánh đổi bằng sanh mạng cuả chúng ta hoặc bằng tất cả những gì mình đang có trong tầm tay… Chính lúc đó chúng ta cần đến một vị cứu tinh, hầu giúp chúng ta có đủ nghị lực và can đãm vuợt qua mọi khó khăn lúc bấy giờ.
Bằng một sự thành tâm thật sư và một sự tin tưởng tuyệt đối. Phép mầu nhiệm luôn luôn sẽ đến với chúng ta và biến đổi sự việc từ xấu trở thành tốt.
Hiện nay thì Tớ chỉ tìm hiểu và cố găng thực hiện theo những lời khuyên căn bản cuả các Thầy thuyết giảng trên băng đìã..v..v..
Thú thật là Tớ chưa quy y, hoặc là thường vào chuà dự những ngày tu tập.
Còn tìm hiểu cặn kẽ về triết lý của đạo Phât thì thật là bao la…Có lẻ suốt cuộc đời cuả chúng ta không thể nào hiểu hết được.
Những ngày tháng an lạc luôn đến vơí các bạn
“Bằng một sự thành tâm thật sư và một sự tin tưởng tuyệt đối.” Hay quá !
Giới thiệu một phim tài liệu do đài BBC của Anh quốc thực hiện. Trong phim, nhà sử gia Bettany Hughes sẽ đưa chúng ta tham quan 7 công trình vĩ đại của Phật giáo khắp nơi trên thế giới:
1. Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ
2. Bảo tháp Boudhanath, Kathmandu, Nepal
3. Chùa Răng (Temple of the Tooth), Kandy, Tích Lan
4. Wat Pho Temple, Bangkok, Thái Lan
5. Angkor Wat, Campuchia
6. Giant Buddha, Po Lin, Hồng Kông
7. Chùa Tây Lai, Los Angeles, Hoa Kỳ
http://phatam.com/video/phat-am/bay-…b0ed93424.html
Phật Âm – Bảy kỳ quan thế giới Phật giáo – Phim tài liệu của BBC
Hi … hi … anh Hồng Sơn ơi … Thêm một phật tử nhà phật giới thiệu về công trình Phật giáo thế giới hỉ … Cám ơn anh nha … em rất thích nha hạp gu đúng ý mình nhé … nhửng lúc không tám trên trang nhà mình em củng hay tìm hiểu nghe thuyết giảng về Phật lắm hi … hi … Cám ơn anh nhé …
Anh Hồng Sơn nầy!
Cám ơn Anh rất nhiều, về phim tài liệu “Bảy kỳ quan thế giới Phật giáo”.
Thật là tuyệt vời, để hiểu biết thêm về lịch sử và những kỳ quan thế giới đạo Phật.
Đức Hiếu viết bài đúng thời điểm, bài viết súc tích, công phu. Hoan hô Đức Hiếu!
Lâu lâu mình “spam” :-). Chúc Đức Hiếu và các bạn KTCT luôn vui vẽ.
Điều làm mình thích đạo Phật là ở chổ Ngài không kêu gọi chúng ta hãy tin ở Ngài mà kêu gọi chúng ta hãy tin vào chân lý, nghĩa là kêu gọi sự thấu hiểu để đạt tới niềm tin chứ không phải là niềm tin mù quáng, điều thứ hai là ai cũng có thể trở thành Phật .
Ngài đạt đến sự thông tuệ đại giác ngộ như vậy từ một con người bình thường như chúng ta, vì vậy ta cãm thấy gần gủi hơn và cãm nhận được niềm cổ vũ lớn lao từ Ngài
Tâm Chay.
Họ là hai anh em, tuổi đã cao, trên dưới tuổi về hưu. Người anh sống ở Sài Gòn còn người em sống ở một thành phố lớn miền Trung. Do tuổi tác cũng kề nhau, cùng trong một thế hệ, nên hai anh em rất đồng cảm và thường xuyên điện thoại thăm hỏi nhau.
Một hôm, trong lúc chuyện trò với người anh, người em vui miệng kể rằng ra chợ lựa mua trái cây về cúng Phật thường hay bị người bán lợi dụng lúc mình lơ là, tráo trái cây hư vào. “Anh biết không, mấy cô bán hàng cứ tưởng em ngu ngơ không để ý, đâu biết rằng chẳng có gì qua được mắt mình, tuy nhiên do thấy tội cho họ phải gánh chịu nhiều trái cây hư nên em phải giả đò không biết để chia sẻ bớt!”. Và người em nghĩ rằng người anh nghe chuyện lòng sẽ vui vì hành động biết nghĩ tới người khác của mình.
Nhưng không, người anh nghe xong điềm tĩnh bảo người em: “Không được, em làm vậy là sai rồi, vì khi em làm vậy tưởng là mình giúp người nhưng thực ra lại làm cho họ mang tội lừa đảo, không trung thực. Như vậy không phải là giúp người mà chính là hại người! Anh cũng giống em, chỉ khác một chút là khi mua đồ, anh luôn tự mình chọn lấy một vài trái cây hư, đồ hộp móp để cùng chia sẻ chút hư hao với người, không để cho người mắc phải tật gian dối”. Người em nghe xong, ngậm ngùi.
Một thời gian sau, nhân lúc rảnh rỗi, người em lại điện thoại thăm hỏi người anh. Và trong cuộc trò chuyện, người em kể rằng trong những lúc trà dư tửu hậu, có đem câu chuyện trao đổi hôm trước ra kể cho các bạn bè thân hữu nghe, và một người bạn thân nghe xong đã phát biểu rằng, “Tâm đó mới đúng là tâm chay!”.
Người anh chỉ cười và cũng chẳng quan tâm gì lắm. Vì, một là, chuyện trò đã qua xong rồi thì thôi, chẳng lưu giữ trong lòng làm chi. Hai là, người anh cũng chẳng tin tưởng gì lắm về lời phát biểu cùng buổi họp mặt của người em, tất cả đều có thể có và cũng có thể không. Có thể chỉ là phịa ra một chút cho vui. Và ba là, chỉ có chân tâm diệu hữu chớ làm gì có tâm chay.
Thế nhưng, một ngày nọ, nhân dịp thuận tiện, người anh về thăm người em. Trong buổi cà phê hàn huyên cùng các thân hữu, có mặt cả “tác giả” của hai chữ “Tâm chay”. Người bạn này kể lại chuyện và lúc đó người anh mới biết rằng em mình kể chuyện tâm chay là thật. Người anh rất vui và lòng vô cùng cảm ơn người bạn này vì nếu trong những lúc trà dư tửu hậu anh ta cứ kể chuyện này thì ít ra cũng nhắc nhớ được cho nhau về cách sống làm sao cho đúng với đạo làm người, cho dù chỉ bằng những hành vi nhỏ nhặt nhất.
Chợt nhớ đọc trong sách xưa, có kể chuyện một vị đạo sĩ mang ơn một người nên muốn tặng cho thuật biến than thành vàng ròng. Người này ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi thuật này có giá trị trong bao lâu. Vị đạo sĩ cho biết là 500 năm. Nghe vậy, không chút đắn đo, người này lập tức trả lời rằng: “Vậy là sau 500 năm nữa vàng sẽ trở lại thành than, và người ôm số vàng đó sẽ vô cùng khổ đau vì mất mát và tiếc của. Cảm ơn tiên sinh, nhưng tôi không nhận thuật này vì tôi không muốn cho người khác phải khổ đau, cho dù là sau 500 năm!”. Chao ôi, đọc chuyện mà thấy vô vàn kính mộ cho tấm lòng của người xưa.
Thật sự thì đời nay cũng không phải là không có những tấm lòng như vậy. Như Leon Tolstoi, nhà đại văn hào Nga, với câu nói bất hủ “Hạnh phúc của một người là làm cho người khác được hạnh phúc”. Hay như một tác giả Pháp với câu: “On ne peut donner son bien, mais on peut donner une partie de son coeur” (tạm dịch: Dẫu ta không thể đem cho người tài sản của cải, nhưng ta vẫn có thể trao cho người một phần của trái tim mình).
Mong sao cho mọi người chúng ta hôm nay đều có được “Tâm chay” và biết trao cho người một phần của trái tim mình.
Theo: Tạp chí Đạo Phật ngày nay 13
Ha.i…z .a… ha..i… z..a…
Lị … Hồng Sơn nàm ngộ … hế…t .. h..ồ..n … à nhza … Đúng nà … h..ủ … len… h..ủ … len … Ngộ mới được anh Ngọc nói ngộ nà …Hảo len ,Hảo len !!!!! nàm ngộ … mắc cổ … wzá nè … nên bị lúng túng theo ngôn ngử nuôn …
Lị nàm ngộ … à muốn trao cả ch..á..y.. tim … cha..y.. gởi … lị … giử dùm luôn wzá … ha..i …z ..a … Hảo … hảo … … Ngộ hổng dám lói ái … lị … gồi … lảo gia à… chẻ đầu ngộ chít à … chỉ… dám lói lị nà … hảo … hảo … thôi … hay … lị thích nà … hủ … len … h…ả… củng zậy … thôi …à … há …
Hi … hi …
Bài viết về Tâm Chay cũa anh Hồng Sơn hay quá ! câu chuyện và lời lẽ thật dung dị nhưng lại chuyển tải giá trị nhân văn sâu sắc. Không hiểu sao tôi rất mê những dạng văn viết như vậy cho nên tôi cũng thích đọc văn cũa Nguyễn ngọc Tư, Nguyễn nhật Ánh và đặc biệt thích những truyện ngắn về thiền ……..nhưng thú thật nhiều truyện đọc xong mà chẳng hiểu gì cã, cứ phải ngẩm nghĩ hoài, lắm lúc thời gian sau đọc lại thì mới chợt “ngộ” ra .
Anh Hồng Sơn ơi ! ( xin lổi ! biết là anh lớn tuổi hơn nhưng tôi không quen kêu bằng “anh” ngay cã với anh ruột cũa mình ở nhà cũng vậy, mong anh thông cãm ) Tôi muốn hỏi anh điều này .
Khi ta làm từ thiện hay làm phước giúp cho ai đó về của cải vật chất hay tinh thần thì ta vì người hay vì mình ?
Anh đừng nghĩ là tôi hỏi đố anh nhe ! tôi tôn trọng anh thật sự nên mới hỏi như vậy đó .
Lúc đầu tôi cũng suy nghĩ như mọi người là tất cã việc đó là vì người nhưng càng nghĩ sâu bao nhiêu tôi càng thấy rằng không phải như vậy .
Lâu nay tôi muốn viết về điều này nhưng ngại đụng chạm, sẳn dịp này hỏi xem kiến giải cũa anh về việc này ra sao, có trùng với tôi không .
Cám ơn anh trước nhe
Việt Trúc
Hi anh Trúc ơi,
Hồi năm 84 lần đầu tiên Xlan ra Hà Nội bằng xe lửa. Dọc tuyến đường nam bắc khi tới ga Diêu Trì Xlan thấy một bà lão chắc hơn 60 tuổi mặc cái áo vá khg còn nhận ra mảnh vải chính của cái áo là loại gì? Bà cầm hai tay mỗi tay 6 buồng cao nặng chịch, đi đến từng cửa sổ của toa xe dơ lên mời mọc. Chân bà khg mang dép cứ thế mà dẫm lên nhũng cục đá tảng xanh nóng bỏng rải bên dười đường tàu và đi dọc suốt con tàu. Nhìn bà Xlan đau lòng quá! Mình cũng đã mua 2 buồng cao đem ra bắc biếu mẹ chồng treo trên xe lửa rồi! Cuối cùng khi tàu sắp chạy may qúa bà đang ở gần toa xe của Xlan nhìn những buồng cau còn nguyên trên tay bà với đôi mắt buồn bả thất vọng. Xlan thương quá kêu bà lại và hỏi. “Thật ra thì con đã có mua cao và biết giá rồi! nếu bà thấy bán được bà chỉ cần nói bao nhiêu có thể bán thì con mua dùm bà”. Cuối cùng bà đắn đo nói giá và Xlan khg trả một tiếng nào lấy hết rồi lấy. Không nghĩ gì cả chỉ muốn mang đến cho bà một niềm vui. Tiền bạc bao nhiêu chúng ta cũng xài hết, và để thực hiện được chuyến đi đó Xlan phải ăn uống tiện tặn trong mấy năm trời. Cứ nghĩ làm được cái gì cho người khác vui chúng ta cứ làm là được. Cuối cùng các bạn biết sao khg? Khi tới ga Đồng Hới tàu bị kẹt bảo nằm đó 4 ngay những quả cau thay nhau rụng rơi xuống người nằm trên hai giường bên trên hai ổng chửi quá trời “cái bà Sài gòn này mua làm chi mà lắm cau thế!” Hihi… “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng để làm gì anh biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi!” Thế thôi!
Đó là ý của Xlan. Mong mọi người vui vẽ.
Chào XLan, Long Lữ & Dũng Ca2ri.
Tuần rồi bận việc đi tỉnh nên kh tám
được mong các ban thông cảm. Nay
nhờ các bạn tìm giúp bạn mình là
Nguyễn Văn Được đang định cư tại Mỹ
ra trường năm 1976 về A 74 công tác
chung, hiện kh liên lạc đươc.
Thân chào các ban.
Cám ơn anh Sơn đã gửi bài tâm chay rất hay, cho em chợt nghĩ lại. Có đôi khi em cũng thấy tâm mình hơi… chai chai.
Hi … anh Trúc ơi …
Cái này hỏi anh Hồng Sơn có cho người khác tham gia vào không … ??? bôi bãi thêm được hông hả …??? anh Trúc … hi … hi … không cho mình củng chen đại vậy nha … ??? bà tám mà … bà tám lại xuất xứ tận VN nên chổ nào củng chồi đầu vô xin ké hết … hi … hi …
Cái ni mình hiểu theo mình nha … tất cả việc làm từ thiện hay làm phước mình nên nghỉ vì mình và thương mình mà hành động như vậy là rất tốt và có phần nào khiêm nhường khiêm tốn mà càng khiêm nhường khiêm tốn lại càng hay … ( mà thật sự đúng nghỉa luôn nha … ) Vì ta thương ta nên giúp người … nhìn rỏ như vậy mới thật là thấu đáo … và đầy ý nghỉa cho việc làm của mình … Tất cả củng chỉ vì thương mình … Xoay lại nhìn mình còn gọi là ” phản quang tự kỷ “… hi … hi … chạy thôi … kìa dép bay … í … í … xí … xí … núp … đã … ha… ha…
Ô ! Kim Hoa không cần phải chạy đâu ! vì thật sự mình nhìn ra vấn đề cũng gần giống như vậy đó, cuối tuần này mình sẽ viết về nó cho bà con coi rồi sau đó cứ phê phán thoải mái dùm cho mình, vì đây chỉ là vấn đề để bàn luận chứ không phải nguyên lý đã được đúc kết
Chào Việt Trúc,
Xin nói rõ bài “Tâm Chay” này không phải tự Sơn viết ra, mà trích đăng từ Tạp chí Đạo Phật ngày nay 13 và nếu không có bài viết của Đức Hiếu thì bài này cũng không được các bạn đọc nhiều. Như vậy credit nên mang về cho Đức Hiếu.
Sơn cũng đọc qua các bài Việt Trúc viết, đang chờ VT viết tiếp đoạn bạn hội ngộ TNL tại đất người. Bài Đồng Tháp Mười, VT để nhiều tâm tình, đọc qua tôi thoáng thấy hình ảnh của chính mình và nhóm bạn KTCT- KSĐH.
“Khi ta làm từ thiện hay làm phước giúp cho ai đó về của cải vật chất hay tinh thần thì ta vì người hay vì mình ?” VT cũng thấy khi đọc lại câu này, nếu làm việc vì mình tuy có mang lợi ích cho một người nào đó thì vẫn là làm việc vì mình! Tất nhiên nếu việc làm hoặc hành động của mình không gây tổn thương đến người thì đã là một điều tốt!
Làm việc thiện lành với tâm không, không vì người cũng không vì mình. Làm chỉ vì là việc cần làm, hoặc làm tựa như nước chảy mây trôi.
Vài lời thô, mong VT cùng các bạn đồng ý với câu trả lời của Sơn vì cấp độ của Sơn chỉ là như vậy
Hồng Sơn
Cám ơn anh Hồng Sơn đã gửi đến bài viết thật hay và vô cùng ý nghỉa trong những ngày này. Chỉ cần thực hiện được một phần nào của ” Tâm Chay ” là cũng đủ cho tâm hồn cảm thấy nhẹ nhàng hơn rồi. Anh Hồng Sơn ơi ! anh đã mở đường chỉ lối cho tụi em học hỏi thêm điều hay lẽ phải, cám ơn anh thật nhiều.