
Phần lớn nhiều người khi còn nhỏ tin vào chuyện ma quỷ nên rất sợ ma nhưng khi lớn lên, bằng vào những hiểu biết của mình dần dần họ không còn sợ ma nữa nhưng với tôi hình như ngược lại.
Lúc nhỏ tôi luôn được cha mẹ dạy rằng không có ma quỷ gì cả, đó chỉ là sự tưởng tượng của con người, lại thêm bản tính lì lợm nên tôi thường tỏ ra can đảm hơn những đứa trẻ cùng lứa. Vậy mà khi lớn lên, cùng với những tao ngộ đã trải qua, lòng tin đó ngày càng giảm dần.
Mặc dù tôi luôn cố gắng giải thích vấn đề huyền bí này bằng những kiến thức khoa học mà tôi biết nhưng có những chuyện hiển nhiên đã xảy ra mà không sao giải thích cho thông được. Giờ đây tôi cho rằng có một thế giới khác mà con người chưa thấu đáo.
Theo tôi, nếu chỉ tin vào những điều khoa học đã chứng minh và phủ định tất cả những gì khoa học chưa giải thích được thì đó không phải là thái độ chân chính của những người làm khoa học.
Khoa học ngày một phát triển, có nhiều tín niệm do sự phát triển của khoa học mà buộc phải thay đổi. Song song đó cũng có những truyền thuyết mang màu sắc huyền bí đã được chứng minh là có thật.
Sẽ là quá sức đễ đi sâu vào những lập luận này vì tôi không đủ thời gian và trình độ tổng hợp những biện giải của các nhà khoa học xung quanh vấn đề huyền bí. Việc tin hay không tin vào một thế giới khác đang tồn tại cùng với thế giới mà chúng ta đang sống theo tỷ lệ tại Mỹ hiện nay gần như là 50% và 50%. Cách đây 30 năm thì số người tin vào nó lại ít hơn nhiều.
Bỏ qua những lý luận nhàm chán trên, tôi muốn kể cho các bạn về vài trường hợp tôi đã gặp khiến cho tôi phải thay đổi suy nghĩ của mình lúc nhỏ.
Vào một đêm tháng 2 năm 1979, thời điểm tôi đang học giáo sinh ở trường Việt Đức tỉnh Bắc Thái. Sau giờ thực tập xưởng lúc 11g đêm, trở về khu nhà ở. Tay chân nhớp nháp dầu mỡ, với vội chiếc gàu tôi vội vàng ra giếng rửa.
Trường Kỹ thuật Việt Đức là trường kỹ thuật có trang thiết bị hiện đại nhất Việt Nam vào lúc đó. Toạ lạc tại huyện Phổ Yên tỉnh bắc Thái, nằm cách thành phố Thái Nguyên 20km về phía nam và cách Hà Nội 60km về phía bắc.
Cũng như các trường chuyên nghiệp và đại học khác nằm ngoài Hà Nội, tuy có máy móc thiết bị tốt như vậy nhưng điều kiện ăn ở lại kém vô cùng. Học sinh thì sống trong khuôn viên nhà trường, giáo viên độc thân cũng vậy, còn các hộ gia đình thì tự làm nhà sống rải rác xung quanh trên những mảnh đất nhỏ do trường cấp.
Các dãy nhà ở cho học sinh được lợp tôn, nền tráng xi măng, vách ngăn giữa các phòng thì bằng khung tre nứa rồi tô bằng đất sét, chỉ có tường gạch ở mặt trước và sau căn phòng để gắn cửa cái và cửa sổ cho hai mặt này.
Cả trường gồm hàng trăm học sinh nhưng không hề có nước máy mà sử dụng nước giếng cho tất cả mọi sinh hoạt. Dĩ nhiên công cụ duy nhất là chiếc gàu thân yêu cùng với dây kéo gàu bằng nhựa, đay, dây cua roa hay thứ gì đó có thể thay thế được.
Giếng nước dành cho học sinh chỉ có hai cái, một cho nam và một cho nữ. Cả hai giếng đều nằm ngoài khuôn viên, chỉ cách hàng rào khuôn viên trường 3 mét mà dọc theo hàng rào là con đường làng dài hun hút có chiều rộng là 2 mét. Chỉ cần băng ngang qua con đường là bắt đầu bước vào cửa giếng.
Gọi là cửa cho bình thường chứ thật ra giếng được xây đơn giản với tường cao 2 mét trên diện tích 6m x 6m bao bọc một miệng giếng tròn có đường kính khoảng 3,5 mét , thành giếng cao hơn mặt nền xi măng khoảng 1 mét. Tường vây quanh nó có chừa trống một khoảng rộng 1 mét đễ đi ra vào. Có thể khi mới xây thì có cửa nhưng sau đó cửa bị hư và vì đối với giếng dành cho nam thì không quá cần thiết sửa chữa nên nó trở thành khoảng trống như vậy.
Giếng ngoài trời nên cũng chẳng có trang bị đèn chiếu sáng gì cả. Vì tường cao chỉ 2 mét và nằm cách hàng rào khuôn viên trường 3 mét nên ban đêm có thể nhận ánh sáng từ các cột đèn bảo vệ của hàng rào bao xung quanh trường, tuy chỉ tù mù sáng nhưng cũng có thể tạm đủ để sử dụng.
Đêm đó cũng bình thường như mọi đêm, nghĩa là cũng có trăng, có sao, có ánh sáng leo lét từ các dãy phòng và đèn chiếu sáng. Từ dãy phòng của lớp giáo sinh chúng tôi, chỉ cần vượt qua thêm một dãy phòng học sinh là đến hàng rào khuôn viên trường, băng qua đường làng hẹp là đến giếng.
Trong tâm trạng nhẹ nhõm vừa kết thúc một ngày thực tập xưởng mệt nhọc, tôi xách chiếc gàu và xà bông lửng thửng bước ra giếng. Phía trước tôi chừng 4 – 5 mét là một cậu học sinh cởi trần mặc quần cụt trắng cũng xách gàu đi ra giếng như tôi.
Chuyện bình thường đến độ không thể bình thường hơn được. Tôi bước ngay đến miệng giếng rồi thả gàu xuống, một cú giật điệu nghệ,chiếc gàu đã chìm hẳn vào trong nước. Tôi hối hả kéo gàu lên rửa tay.
Trời tháng 2 còn lạnh lắm, chiếc giường ấm áp đang chờ đợi, có thú vị gì đâu mà nhẩn nha chậm chạp. Vừa vội vàng rửa ráy tôi vừa nghĩ đến tin chiến sự hôm nay.
Bọn bành trướng Bắc Kinh đã đánh tới biên giới tỉnh Bắc Thái rồi, có lẽ vài ngày nữa thôi là chiến sự sẽ lan đến đây. Không biết kế hoạch phòng thủ ra sao mà đến tận lúc này vẫn chỉ có các đơn vị bộ đội địa phương đang chống lại kẻ thù, còn các đơn vị chủ lực vẫn còn hành quân nghi binh qua lại mà chưa đụng độ với địch.
Chúng tôi tuy vẫn tiếp tục học bình thường nhưng cũng đã biên chế thành trung đội đại đội để sẵn sàng ứng chiến. Đi lên lớp học mà vẫn mang súng theo dựng bên cạnh. Rồi đây có thể đứa còn đứa mất hoặc cũng có thể tất cả đều hy sinh. Biết làm sao được khi đất nước có chiến tranh, ai lại không muốn sống nhưng chúng tôi không thể chọn con đường đào ngũ. Thư từ viết về Sài Gòn hầu hết chúng tôi đều kể sơ qua về chiến sự và nói mọi việc vẫn bình thường cho gia đình bớt lo lắng.
Kể ra mọi suy nghĩ thì dài nhưng thật sự thời gian chỉ thoáng qua vài phút thôi, vừa sử dụng hết gàu thứ nhất tôi lại thả gàu xuống để kéo nước thì tôi chợt nhớ đến cậu học sinh đi phía trước mình lúc nãy.
Nó đâu rồi? Giếng chỉ có một cửa ra vào mà tôi thì đứng ngay bên cửa, nó đi ra sẽ phải chào hỏi mình chứ hoặc ít ra tôi cũng nhận biết chứ ? Chẳng lẽ …….??? Tôi bỗng rùng mình khi nghĩ đến chuyện kỳ quặc đó. Định không rửa tay nữa nhưng tôi lại nghe tiếng tạch tạch tạch đều đều của líp xe đạp, nhìn vội ra ngoài tôi thấy một ông già mặc quần dài sẫm màu và áo trắng ngắn tay đang dắt chiếc xe đạp đi ngang. Hơi hoàn hồn một chút vì còn có người gần đó, vội vàng rửa tay nhanh chóng trong thời gian không đến 15 giây cho xong, tôi xách gàu vọt ra khỏi giếng . Nhìn theo hướng ông già lúc nãy thì tôi muốn đứng tim, trên con đường dài hun hút với ánh sáng nhàn nhạt của đèn chiếu sáng đã không có một bóng người. Nếu đi bộ trong khoảng 15 giây như vậy thì chỉ cách tôi chừng hơn 10 mét mà thôi, vậy mà ông ta đã biến mất y như sự biến mất vừa rồi của cậu học sinh vậy.
Lần này tôi không còn giữ thể diện thầy giáo tương lai được nữa mà lập tức ba chân bốn cẳng chạy về phòng ở. Đêm đó cảm giác ớn lạnh cứ theo tôi, một cảm giác lạ lùng chưa từng trải qua khiến tôi không chợp mắt được. Lần đầu tôi cảm thấy sợ như vậy, trong đầu cứ nhớ lại từng đoạn quá trình xảy ra rồi phân tích đủ kiểu mà không sao giải thích được.
Chẳng lẽ đó là ma? Rõ ràng tôi đang tỉnh táo, đang hoạt động bình thường chứ đâu phải trong giấc ngủ? Và chuyện lại xảy ra đến hai lần trong cùng thời gian.
Gạt ngang những suy nghĩ đó, tôi cố dỗ giấc ngủ. Trong phòng lúc này đèn sáng choang, với diện tích chỉ khoảng 18 mét vuông mà có một bóng đèn 100 watt giữa phòng và vài bóng 60 watt ở các đầu giường.
Nói thêm là tuy phòng chỉ có 18 m2, ngang 3 mét, dài 6 mét, nhưng có 4 giường đôi gồm 7 người nằm dọc hai vách tường, vậy thì có hai giường gần cửa cái và hai giường gần cửa sổ. Tôi và anh bạn Tạ ngân Hiệp nằm ở hai giường bên trong tức là hai giường gần cửa sổ. Tầng trên giường tôi có anh bạn giáo sinh bên Don Bosco, song song và cách giường tôi chỉ hơn 1 mét là giường Tạ ngân Hiệp.
Đèn thì sáng, phòng thì đông người như vậy có nhút nhát lắm thì cũng không còn gì phải sợ. Thế là tôi yên tâm thiếp dần đi. Nửa đêm đó tôi bỗng giật mình thức giấc với cảm giác như có ai đang chăm chăm nhìn vào mình. Mở mắt ra, cái tôi nhìn thấy đầu tiên là một khuôn mặt trắng bệch với làn da trổ đồi mồi mà mái tóc cắt ngắn bạc trắng, mặc quần và áo bằng satin màu đỏ chót, gương mặt quái quỷ đó đang chăm chú nhìn tôi như nhìn một món mồi ngon, lại còn nhe miệng lồi chiếc răng nanh nữa chứ. Tay tôi vung mạnh lên, gương mặt đó biến mất. Tôi nghĩ thầm rằng rõ ràng mình đang nằm mơ chứ có ma quỷ gì đâu nhưng quả thật gương mặt đó thật ghê rợn. Tôi lại từ từ nhắm mắt nhưng vừa nhắm mắt nó lại chồm đến lần nữa.
Lần này tôi ngồi dậy để chắc ăn rằng mình đang thức chứ không phải nằm mơ nữa. Vén mùng lên, tò mò ló đầu ra nhìn về phía cửa cái là nơi bóng đỏ vừa thoát đi, thì lạ chưa, “nó” không hề biến mất mà lấp ló nấp bên đầu giường sát cửa. Tôi sợ đến độ không dám nhìn về phía đó nữa, chẳng lẽ bây giờ la lên là có ma thì ai tin được, lại phải xấu hổ với mọi người. Tôi quyết định thò tay lấy cây súng nơi đầu giường, kiểm tra cẩn thận khoá an toàn và ôm lấy nó để tăng can đảm. Thép súng lạnh lẽo lúc này làm tôi yên tâm chìm vào giấc ngủ cho đến sáng.
Cho đến giờ đây sau 35 năm mà tôi vẫn còn nhớ rõ gương mặt đó, mặc dù tôi không hề gặp lại lần nữa. Trong thời gian dài tôi cố nhớ lại những hình ảnh ma quái mình đã xem nhưng không nhớ nỗi mình đã gặp gương mặt đó ở đâu. Có phải chăng tôi đã tổng hợp các hình ảnh ma quái mà mình đã xem thành một gương mặt lạ lùng đó trong lúc nửa mơ nửa tỉnh. Tôi không hiểu rõ được nhưng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ quên “nó”.
Từ năm 1980 tôi có quen với một cặp vợ chồng, người chồng cũng là một học sinh Cao Thắng. Chúng tôi quen nhau từ khi họ còn là người yêu của nhau cho đến lúc họ thành vợ chồng rồi có con. Họ là người không hề tin vào chuyện thần thánh ma quỷ gì cả cho đến lúc người vợ có bầu rồi sinh ra đứa con trai.
Lúc này không biết có phải do sức khoẻ kém đi hay sao đó mà người vợ thường xuyên thấy có một người đàn bà cứ đêm đêm lại đứng bên góc giường của mình để đòi con. Mọi việc cứ lập đi lập lại từ khi mang bầu đến lúc sinh con, cũng vẫn là người đàn bà đó.
Có một lần nhân dịp lễ lạc chi đó, chúng tôi tổ chức bữa gặp gỡ tại nhà tập thể Đời Tân của trường Cao Thắng, nơi tụ tập là phòng của một anh bạn giáo viên ban cơ khí trong trường.
Thiết kế của các phòng ở đó đều như nhau, nghĩa là cửa ra vào xoay vào hành lang bên trong, còn phía kia là balcon nhìn ra đường Trần Hưng Đạo.
Do phòng ốc chật chội và không thể đủ bàn ghế cho mọi người nên hầu như tất cả buổi tiệc tương tự đều ngồi thành vòng tròn dưới sàn. Tôi ngồi xoay lưng về phía balcon, còn đôi vợ chồng nọ thì đối diện tôi hướng mặt về phía balcon.
Đang giữa buổi tiệc vui vẻ mà người vợ cứ đòi ra về, khiến cho anh chồng bực mình và chúng tôi thì cũng mất hứng. Cuối cùng thì buổi tiệc cũng tan, mọi người lần lượt ra về. Anh chồng tuy vậy nhưng vẫn cứ nán lại thêm chút nữa. Chỉ còn vài anh em thân thiết cùng sống chung với nhau khi đi học chung rồi trở về lại tiếp tục sống cùng nhau ở lầu đồng hồ thời gian khá dài. Lúc này người vợ mới kể lại là trong lúc mọi người đang ngồi nhậu nhẹt thì chị lại thấy người đàn bà đã thường xuyên ám ảnh chị trước đây. Lần này bà ta đứng ngay ngoài balcon mà nhìn vào trong phòng, đây là lần đầu chị ta thấy người đàn bà nọ trong khi đang thức giấc. Chúng tôi nghe rồi nhìn nhau mà thấy lạnh lẽo. Sau lần đó phần vì sợ, phần vì lo cho con nên chị cũng có cúng vong hồn người nọ, cầu cho người cõi âm đó hãy buông tha cho con của chị.
Tôi thường xuyên đến chơi nhà họ, nhìn thấy đứa nhỏ ngày một lớn và tỏ ra rất thông minh và láu lỉnh. Sau đó bẵng đi thời gian dài, vì không còn dạy trường Cao Thắng nữa và anh bạn cũng chuyển công tác về tỉnh nên chúng tôi không còn dịp gặp nhau.
Năm 2002, trước thời gian tôi đi định cư tại Mỹ chừng 1 tháng, tình cờ tôi gặp lại anh bạn ngày nào. Anh cho hay rằng đứa con trai ngày đó đang học đại học Bách Khoa năm thứ 2 thì bỗng nhiên bị bệnh mà mất. Tôi vừa nghe bỗng nhớ ngay đến chuyện người đàn bà đòi con dạo trước.
Khi đó tôi đang rất vội, chỉ dừng lại nói chuyện một chút rồi đi tiếp chứ không có thời gian để hỏi cặn kẽ hơn nhưng khi về rồi tôi cứ nghĩ hoài đến chuyện đó, không lẽ cứ trùng hợp ngẫu nhiên như vậy, mà là chuyện dẫn đến kết quả cuối cùng thật thê thảm.
Giữa năm 2000 đang phụ trách kinh doanh cho một công ty sản xuất vật liệu xây dựng . Trong một chương trình liên doanh với công ty vật liệu xây dựng thành phố Huế, tôi được công ty cử đi Huế để hoàn thành việc lắp đặt thiết bị, sản xuất thử và xúc tiến kinh doanh cho công ty bạn. Tôi đã đi nhiều lần và ăn ngủ ở đó thời gian khá dài đủ để quen biết toàn bộ nhân viên lẫn ban giám đốc của khách sạn Công Đoàn thành phố Huế.
Từ phía cầu Tràng Tiền đi về phía Đập Đá, qua đập chừng 300 – 400 mét, khách Sạn Công Đoàn nằm bên trái ngay bên bờ sông Hương. Có lẽ đó là sản phẩm của thời bao cấp cho nên tuy khách sạn nhỏ và không lấy gì làm sang trọng nhưng lại toạ lạc trên vị trí rất đẹp.
Phía đối diện khách sạn hơi chếch về bên trái là thôn Vỹ Dạ, là nơi mà thời sinh tiền nhà thơ Hàn Mặc Tử đã sống. Phía sau khách sạn là sông Hương thơ mộng, phía bên kia sông là khu Kim Long nghe nói rằng đó là nơi sinh sống của nhiều cung tần mỹ nữ sau thời vua Bảo Đại thoái vị .
Chiều chiều tôi thường ra phía sau khách sạn, bên bờ sông Hương họ có đặt hai dãy bàn cho khách đến đặt tiệc hoặc ăn uống. Tôi thường rủ nhân viên khách sạn hoặc các đối tác liên doanh cùng lai rai tại đó.
Vị trí tuy rất đẹp nhưng không hiểu sao thường vắng khách, có những buổi chiều không có bạn bè và tài xế, tôi ngồi một mình đến trời sụp tối mà cãm thấy ớn lạnh vì vắng vẻ quá.
Hàng ngày, nếu không có gì cần bàn bạc với bên công ty liên doanh thì tài xế đưa tôi lên xưởng sản xuất, cách thành phố Huế 20 km về phía bắc. Nơi đó hình như thuộc huyện Hương Thuỷ. Địa điểm này sẽ hình thành một xí nghiệp mới. Ngoài việc sản xuất tôn cán sóng, tôi còn cần chuẩn bị mặt bằng và đưa máy nghiền đá ra lắp đặt và sản xuất. Mặt khác lại mang nhiệm vụ huấn luyện kinh doanh những mặt hàng này cho nhân viên của họ cho nên cứ trưa là tôi trở về Huế để lo xúc tiến kinh doanh.
Hôm đó trời nắng nóng quá, sau buổi ăn trưa tại khách sạn, tôi tự cho phép mình nghỉ buổi chiều. Cơm no nê, máy lạnh mát mẻ tôi nằm thiu thiu ngủ. Một bóng dáng con gái nhẹ nhàng bước vô phòng. Tôi thầm nghĩ, chắc là thời tới rồi đây!
Những nàng tiếp tân xinh như mộng tuy luôn dịu dàng và ăn nói mềm mỏng nhưng khi chúng tôi mời lên phòng chơi thì đều từ chối với lý do nhân viên tiếp tân không được phép vào phòng của khách. Vậy mà hôm nay lại tự động đến phòng tôi, lại còn lén lút nhẹ nhàng để gây bất ngờ đây.
À mà nàng nào vậy ta? Vì giả bộ ngủ tôi híp mắt lại nên không thể nhìn rõ nhưng tôi cũng không khép chặt mà hơi hí hí một chút để chờ thời điểm quyết định mà vùng lên ôm chặt lấy nàng.
Chỉ thấy tóc nàng dài quá vai và hơi ướt một chút, hình như vừa tắm xong chưa kịp hong khô tóc.
Cái gì đến thì nó sẽ đến. Khi nàng cúi xuống, môi nàng vừa chạm môi tôi kèm theo cảm giác ướt át thì tôi vươn hai tay ôm lấy nàng. Tưởng rằng sau đó sẽ là cảm giác ấm áp cũa thân hình nóng bỏng thì lạ chưa tay tôi đã chạm phải tay mình. Tôi giật mình mở to mắt ngạc nhiên, không có nàng nào trong phòng cả. Vội đưa tay lên sờ môi vừa có cảm giác ướt át khi nãy thì không thấy ướt chút nào cả.
Rợn hết cả người, nhìn đồng hồ thì đúng 12g trưa . Tôi vội vàng mặc quần áo và đi xuống lầu. Hành lang dài đầy bóng nắng mà sao vắng lặng đến kỳ lạ khiến tôi có cảm giác như mình đã ù tai không nghe được bước chân của chính mình, gần như tôi không cảm giác được sự hiện hữu của bản thân trong sự yên lặng đến đặc quánh này.
Phòng reception cũng vắng lặng, cô nàng này khá siêng năng vậy mà trưa nay đi đâu mất, tôi đi lần về phía nhà ăn thì gặp hai nàng đang đứng tán chuyện. Tôi bước đến và câu thoại diễn ra như sau:
– Chào các em! Đang giờ nghỉ trưa hay sao mà có vẻ rảnh rỗi vậy?
– Dạ (giọng con gái Huế nghe muốn rớt tim) Còn anh hôm nay không đi làm mô? ( tôi không nhớ hết cách dùng từ của người Huế nên tạm chuyển sang giọng nói của Sài Gòn vậy)
– Ừ ! Hôm nay anh nghỉ, buồn buồn xuống đây nói chuyện chơi với các em.
– Ứ ừ, hân hạnh quá hỉ mi? (một cô vừa nói vừa nhìn cô kia và cười)
– Anh muốn hỏi mấy em chuyện này. Các em hãy nói thật cho anh biết. Anh đã ở đây lâu rồi và sẽ tiếp tục ở lại đến khi xong đợt công tác. Đừng ngại gì hết.
– Dạ anh cứ hỏi, cái gì biết thì em sẽ trả lời.
– Ừm …..Ở đây từ trước đến giờ có ai bị chết hôn?
– Dạ ……có…..( trả lời có vẻ rất miển cưỡng )
– Đó là con gái phải hôn?
– Dạ (có vẻ sau khi xác nhận có người chết rồi thì không cần gì phải dấu diếm nữa nên câu trả lời mạnh dạn hơn nhiều)
– Là chết đuối phải hôn ?
– Dạ
– Cô gái này tóc dài quá vai phải hôn?
– Dạ
– Khi chết mặc áo khoác màu đen phải hôn?
– Dạ
– Vậy là đúng rồi !
– Hai nàng hơi ngần ngừ một chút rồi hỏi tôi, chắc anh vừa gặp?
Để che dấu nổi sợ của mình tôi cười xoà và nói rằng “đẹp trai như anh cho nên ma còn phải mê huống chi là người. Mấy em mà không nhanh tay là mất phần đó nghen!”
Sau đó tôi không đủ can đảm trở lên phòng ngay mà đành gọi điện cho tài xế chở về chỗ tôi đi dạo quanh TP tìm hiểu thị trường.
Sau này khi được kể lại tôi mới biết cách đó không lâu, có một cô gái là cháu của một viên chức trong TP Huế đến làm tại khách sạn, một buổi chiều cô ta ra sau khách sạn, ngồi bên bờ sông để giặt tạm chiếc áo và sơ ý sẩy chân rớt xuống sông rồi chết đuối, khi chết đúng là cô ta vẫn đang mặc chiếc áo khoác màu đen dài gần đến gối. Có một điều lạ lùng là chưa ai “gặp” được cô ta như tôi đã gặp.
Tội nghiệp cho cậu tài xế đã theo tôi từ Sài Gòn đến Huế, sau khi nghe tôi kể xong, đêm đó do tôi có việc phải đi Quảng Trạch nên cậu ta đành ở lại một mình. Cậu ta không dám ngủ trong phòng mà ôm mền gối xuống ngủ tại phòng reception cho đỡ sợ.
Trên là những gì tôi đã trải qua, có những chuyện rõ ràng hơn nữa nhưng vì có điều tế nhị hoặc liên quan đến người khác nên tôi không thể kể ra cho mọi người đọc.
Để tránh sự vô tình áp đặt suy nghĩ của mình cho người khác tôi có trích một số tư liệu dưới đây cho mọi người tham khảo, trong đó có cả hai quan điểm về tin hay không tin có một thế giới khác cùng tồn tại với chúng ta.
Mark Twain – tác giả nổi tiếng của Mỹ sinh ngày 30-11-1835, ngày sao chổi Halley xuất hiện trên bầu trời. Sau này, ông đã thề rằng ngày Halley xuất hiện lần nữa, tức là 75 năm sau lần đầu tiên nó ghé thăm Trái Đất, ông cũng sẽ qua đời. Ông nói “Tôi đã đến cùng sao chổi Halley, và tôi mong muốn được ra đi cùng nó.” Ngày 21-4-1910, Mark Twain đã qua đời sau một cơn đau tim nặng, chỉ một ngày sau khi sao chổi Halley quay lại Trái đất!
Một quan điểm được đông đảo công nhận là, Albert Einstein đã đề xuất một cơ sở khoa học về sự tồn tại của ma: nếu năng lượng không thể được tạo ra hay phá hủy mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, điều gì xảy ra với năng lượng cơ thể của chúng ta khi chúng ta chết đi? Liệu chúng bằng cách nào đó có biến thành ma?
Hồn Ma, trong tư tưởng tín ngưỡng và triết học, trong niềm tin của nhân loại là bản chất tự nhận thức bản thân đặc trưng cho một sinh vật nào đó. Theo những tư tưởng này, linh hồn sát nhập bản chất bên trong của mỗi sinh vật, và là cơ sở thật sự cho trí tuệ. Nhiều nền văn hóa và tín ngưỡng tin rằng, linh hồn là sự thống nhất của ý thức về đặc tính của một cá thể.
Khái niệm về linh hồn có những liên hệ chặt chẽ với những ý niệm về cuộc sống sau khi chết, nhưng có nhiều ý kiến rất khác nhau, thậm chí của cùng một tôn giáo nào đó, về những gì sẽ xảy đến với linh hồn sau khi cơ thể chết đi. Nhiều người theo những tôn giáo, triết lý nhất định cho linh hồn là phi vật chất, trong khi có người khác lại cho rằng linh hồn có thể có một thành phần vật chất nào đó, và một vài người thậm chí đã cố tìm khối lượng (trọng lượng) của linh hồn. Linh hồn thường (nhưng không luôn luôn, như được giải thích ở dưới đây) được cho là bất tử.
Những người hoài nghi về Hồn Ma viện dẫn những hiện tượng như suy giảm hoặc mất khả năng nói, viết và hiểu ngôn ngữ ở dạng nói hay viết do thương tổn, bệnh tật ở các trung tâm não; và bệnh Alzheimer là những bằng chứng chứng tỏ đặc tính của một cá thể là vật chất, và hơn nữa được cấu tạo từ những thành phần đơn lẻ, trái với triết lý cho rằng linh hồn là bất tử, và thống nhất.
Giải thích hồn ma theo Phật Giáo
Theo như giải thích của Phật Giáo, đặc biệt là môn học Vi diệu pháp thì không có một linh hồn nào trong con người. Con người gồm 2 phần Sắc Uẩn (các bộ phận cơ thể) và Danh Uẩn (các trạng thái tâm lý). Vi diệu pháp quan niệm đời sống con người là tiến trình phối hợp giữa các trạng thái vật lý (của Sắc Uẩn) và trạng thái tâm lý (của Danh Uẩn) biến đổi theo nhân duyên (tùy thuộc điều kiện). Danh Uẩn gồm Thọ Uẩn (các trạng thái cảm giác), Tưởng Uẩn (các trạng thái tưởng tượng), Hành Uẩn (các trạng thái tâm hoạt động), Thức Uẩn (ý thức chủ) cùng sinh, cùng diệt tùy theo điều kiện phát sinh trong cuộc sống. Đa số những lầm tưởng về một cái linh hồn, cái ngã mà con người tưởng tượng ra là do Tưởng Uẩn hoạt động. Có 2 vấn đề chi phối đời sống tâm lý con người là Nghiệp và “Sự tùy thuộc phát sanh của Thức” (xem Thập nhị nhân duyên).
Theo như Vi diệu pháp, Thức không tồn tại thường hằng mà biến đổi, sinh và diệt rất nhanh. Trong một sát na (nhỏ hơn một giây rất nhiều lần) thì Thức sinh và diệt tiếp nối nhau. Ví dụ: sở dĩ chúng ta thấy được hình ảnh là do Nhãn thức (thức thấy) sinh và diệt liên tục tiếp nối nhau tạo ra “sự thấy”. Nhãn thức 1 sinh rồi diệt, nhãn thức 2 sinh rồi diệt, nhãn thức thứ n sinh và diệt tạo nên cái thấy. Chúng ta tưởng rằng “cái thấy” do thức là trường tồn, chứ thật ra chúng sinh và diệt nối tiếp nhau. Tương tự cho: nhĩ thức (thức nghe), tỉ thức (thức ngửi mùi), thiệt thức (thức của vị), thân thức (thức của thân). Riêng Ý thức sanh lên cùng lúc với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Tức là không có một cái ngã nào hay linh hồn nào mà trường cửu dù trong một giây đồng hồ. Vi diệu pháp tuyên bố rằng Danh Uẩn sinh diệt còn lẹ hơn là Sắc Uẩn gấp 17 lần. Điều này, chúng ta thấy rất gần với sự biến đổi (sinh diệt) của các hạt sơ cấp trong vật lý là không thể nắm bắt được vị trí của hạt đó. Lúc sắp chết, Thức Cuối Cùng (Tâm Tử) sinh lên và diệt, Thức Tái Sinh cho một kiếp sống mới được tạo ra do Nghiệp qui định. Do vậy, theo như Vi Diệu Pháp của Phật giáo nguyên thủy thì không có một linh hồn nào mà cái “linh hồn” chẳng qua là sự hoạt động của Danh Uẩn dưới tác động của Nghiệp và Do duyên sinh (do cuộc sống chi phối). Một số trường phái Phật Giáo khác như Mật Tông quan niệm có Thân Trung Ấm để cho linh hồn trú ngụ trước khi nhập thai. Tuy nhiên, quan niệm ấy chưa được ai kiểm chứng và sự giải thích về linh hồn không phù hợp với khoa học.
Một thí dụ cụ thể về Ma
Để tránh cách trình bày tổng quát, siêu hình và ẩn dụ như trên đây, ta thử đưa ra một vài thí dụ cụ thể và đơn giản hơn về những con ma thường hiện ra để dọa nạt những con người bình dị như chúng ta đây, kể cả trẻ con cho đến người lớn. Chẳng hạn khi ta bước vào một gian phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con ma, tóc xỏa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt… và cười với ta một cách thật rùng rợn.
Nếu ta bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con ma, thì ta sẽ không thấy nó khi ta đến gần. Vì thật ra đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu và do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn “không dám” tiến đến gần “nó” thì ta cứ bật đèn lên, thì con ma cũng sẽ biến mất. Ngược lại, nếu ta hét lên một tiếng, “vắt giò lên cổ” mà phóng chạy, thì nhất định con ma sẽ đuổi theo, và nhất định là ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nó được, vì chính ta cõng nó mà chạy. Nó ở trong đầu ta, trong thân xác đang “nổi da gà” của ta.
Tệ hơn nữa, có thể sau đó ta lại đem chuyện “thấy ma” ấy mà vừa thở hổn hển, vừa kể lại với đầy đủ chi tiết cho một người khác nghe. Đấy là cách mà ta giới thiệu con ma mà ta trông thấy cho một người thứ hai, có thể người này cũng hơi sợ thế nhưng vẫn cứ đón rước nó với sự thích thú và đem cất nó vào trong đầu mình, sau đó lại đem nó ra để kể cho người thứ ba nghe, người thứ ba lại kể cho người thứ tư. Cứ mỗi lần chuyển sang đầu một người khác thì con ma lại trở nên hung tợn hơn và khiếp đảm hơn một chút, mắt nó trợn to hơn, răng nó dài hơn, và nó cười rùng rợn hơn. Biết đâu sau một vòng chu du hết người này sang người khác thì con ma ấy lại được người nghe sau cùng thuật lại cho chính ta nghe, và có thể là ta sẽ còn sợ con ma đó hơn cả con ma mà chính ta đã từng trông thấy tận mắt trước đây.
Đức Phật có đưa ra một thí dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại. Thế nhưng khi nhìn kỹ lại thì đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta, con ma cũng ở trong đầu ta là như vậy. Vì thế nếu trông thấy có con ma trong góc phòng thì nên bật đèn lên hay tiến đến gần “nó” để xem thực hư ra sao mà không nên thét lên một tiếng rồi cõng nó mà chạy.
Khi ta ngủ mê, đôi khi ta “thấy ma”, ta hét lên hoặc la ú ớ… Giật mình thức giấc, ta không thấy con ma nào cả. Khi ngủ, ta nhắm mắt, nằm trên giường và trong gian phòng tối om, làm gì ta có thế dùng mắt mà thấy được. Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ nơi tiềm thức của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta, từ những ám ảnh bịnh hoạn của ta, từ những đam mê, tham dục của ta, từ những bám víu vào ảo giác, sân hận của ta…Đối với những người tu tập cao, nhất là các vị đại sư tu tập theo các phép thiền định của Phật Giáo Tây Tạng, thì ít khi họ chiêm bao, hoặc nếu có chiêm bao thì họ cũng chỉ “thấy” những phản ứng thấm đượm lòng từ bi, yêu thương, khoan dung và độ lương của họ trước những cảnh xảy ra trong giấc mơ, thế nhưng tuyệt nhiên họ không còn thấy ma hoăc những gì làm cho họ khiếp sợ nữa.
Tóm lại, ma nằm trong tâm trí ta, trong tâm thức ta. Nó là chủ nhân ông của mọi tư duy và tác ý của ta. Vị chủ nhân ông ấy khích động và tiếp tay cho sự vận hành của nghiệp. Ngũ uẩn (skandha) tức tổng hợp thân xác và tâm thức ta là cơ sở chống đỡ cho sự vận hành ấy để tác động với ngoại cảnh – tức cơ duyên – để giúp cho nghiệp biến thành quả. Vậy con ma, hay vị chủ nhân ông của ta chính là cái “ta”, cái “ngã”, cái “tôi” đang ẩn nấp trong ta, đang điểu khiển ta. Nói cách khác đơn giản hơn thì con ma ấy chính là ta. Con ma đó đại diện cho vô minh, tức các bản năng thú tính, dục vọng, thèm khát, bám víu, hận thù, ảo giác… kích động và xúi dục ta tìm mọi cách làm thoả mãn những đòi hỏi đó của nó. Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta, ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái “tôi”, cái “ngã” của ta. Nó rất khôn ngoan và khéo léo, vì tùy theo từng người, từng bối cảnh và từng trường hợp mà nó sẽ dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái, dễ thương, hoặc hét lên the thé…, mục đích là để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái “ngã”.
Ma là cái “ngã” đang thống trị ta, dạy ta tham lam, ích kỷ, xúi giục ta, nịnh hót ta để biến ta trở thành đốn mạt, quỷ quyệt và lừa dối. Đấy là cách mà ma đã làm phát sinh ra cả cái thế giới luân hồi này, ma nào phải chỉ biết có dọa nạt suông đâu. Cái thế giới của chúng ta nằm trong sự kiềm tỏa của nó, đồng thời nó lại nằm trong tâm thức ta. Ma là hiện thân của sự sợ hãi, đọa đày, già nua và cái chết trong thế giới này. Nó đội lốt của vô minh để tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê và lầm lẫn, kích động ta tạo nghiệp, buộc chặt ta vào cảnh giới của Ta-bà. Đánh đuổi con ma ấy ra khỏi tâm thức tức có nghĩa là xoá bỏ cả thế giới luân hồi.
Tóm lại sự vận hành của bánh xe luân hồi hay chu kỳ của sự sống sở dĩ quay đều là nhờ vào bộ máy vận chuyển do ma điều khiển và lèo lái. Bộ máy đó được thiết kế bởi sự tương tác của vô số nghiệp. Chỉ có sự tu tập nhằm đạt được những thể dạng tâm thức trong sáng, an bình và tinh khiết mới có thể giúp ta tháo gỡ và phá bỏ cấu trúc của bộ máy đó và đuổi con ma ra khỏi đầu. Sử dụng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổi ma thì chẳng những chỉ làm trò hề cho trẻ con xem mà còn làm cho ta thêm hoang mang và khiếp sợ. Lý do thật hết sức đơn giản, nếu muốn đuổi ma trong gian phòng thì nào có con ma nào đâu trong đó để mà đuổi, còn nếu muốn đuổi con ma trong đầu ta thì nó lại quá sức tinh ranh để mà có thể đuổi nó, bởi vì nó biết sử dụng tấm màn vô minh dầy đặc của ta để nấp.
* Trang này được xem 3240 lần
Không biết có nên tin có ma hay khg? Xlan đã một vài lần nằm mơ nhưng thấy rất thật và mình là người rất thich đọc truyện ma. Những ngày ở bên Úc có thời gian ra thư viện tìm truyện tiếng Anh đọc cho lên vốn từ vựng, phải nói là trên 50 cuốn toàn truyện ma nhưng đến khi đọc xong cuốn của Frankenstein thì hãi thật sự trả xong cuốn truyện sau đó khg dám đi ngang qua quày sách đó nữa. Phúc cho em quá phải khg anh Tuân?
Truyện anh Trúc kể nói thiệt là em đọc tới đoạn ông già đạp xe đạp đi qua thì khg dám đọc tiếp nữa vì sợ cảm giác ớn lạnh chạy khắp người. Hồi nhỏ mình sợ ma lắm nhưng khi sanh con dặn với lòng mình khg sợ vì sợ con nó sẽ bắt chước sợ theo với lại làm gì có Ma!
Cách anh Trúc kể làm em hình dung được quang cảnh ở đó thấy ghê quá! người hiểu biết lý giải nhiều cách để nói là khg có ma, nhưng mình sợ trước cho ma nó né cho chắc ăn, “biết thằng này sợ rồi nhát nó làm gì!” con ma ơi hình như anh Tuân khg có sợ kìa! Em chỉ đường cho ma…chạy chứ đi thì biết bao giờ mới tới chỗ anh hehe…
Trời sao anh Đạt nỡ lòng nào bỏ đại ca em vô nghĩa…..địa chắc thấy đại ca em nếm nhiều đòn quá nên nghĩ ảnh khg có sợ….tần… ra què hehe….
Cám ơn các bạn trong ban quản trị web ktctuc đã đăng và lồng vô những hình ảnh hấp dẫn minh hoạ cho bài viết . Đúng là mình đã hứa với Kim Thu là nộp bài này dịp haloween nhưng làm biếng quá cứ kéo dài đến bây giờ .
Thiệt ra ngày ngày lên web xem cứ thấy Xuân Lan và Kim Thu miệt mài ra sức cho web site nhộn nhịp hấp dẫn trong khi mình rảnh rỗi mà không góp sức cũng cãm thấy có lỗi nhưng không có cảm hứng thì làm sao viết được . May làm sao, cứ ngày ngày nhìn hình ảnh 2 nàng đến một hôm nằm mơ gặp ác mộng ….thế là bài viết đã hoàn thành he.he.he……
Có một câu chuyện phản bác về ma quỷ rất có lý, mình đọc lâu rồi nên không nhớ rỏ nội dung nhưng đại khái là :
Có một người gặp đức Phật, anh ta than thở rằng mình bị ma ám thường xuyên, mặc dù anh đã can đảm nhiều lần dối diện với nó nhưng không tài nào chấm dứt nổi sợ vì con ma này rất thần thông. Mọi chuyện anh ta làm nó đều kể ra vanh vách, kể cã những chuyện chỉ mình anh ta biết được .
Đức Phật nói rằng, lần sau nếu ngươi gặp nó thì cứ bóc một nắm đậu trong tay và hỏi nó rằng trong tay ngươi có bao nhiêu hạt đậu. Ta tin rằng chẳng có con ma nào trã lời được câu hỏi đó !
Câu chuyện đó chứng minh rằng ” ma ” nằm trong đầu của mổi người chúng ta .
Xem hình minh hoạ trong nghĩa địa mới nhớ câu chuyện vui.
Có một du khách xem tranh trong viện bảo tàng. Viện bảo tàng này đã có nhiều người đồn là có ma . Du khách nọ mải mê xem đến khi trời tối lúc nào không hay . Chợt giật mình, nghĩ đến những lời đồn đoán nọ, sẳn gặp một người khách còn lại gần đó . Ông ta nói với giọng rất yên tâm rằng : Gặp ông tôi mừng quá, thiên hạ cứ đồn là bảo tàng này có ma ” .
Người khách nọ trã lời : ” chắc người ta đồn như vậy thôi, chứ tui ở đây 300 năm nay mà đâu có thấy gì đâu “.
Trời vắng như chùa bà đanh ai cũng sợ ma khg dám đi ngang nghĩa địa còn có mình em. Hỏng lẻ cả mấy anh em bên Úc cũng sợ sao ta! Kim ơi hay là Kim giống Xlan sao ta nhìn anh Trúc lại thấy ma rồi huhu…
Đọc chuyện ma của Anh Chị mà em lại tức cười, lại đọc to cho các em trong phòng nghe ai cũng nói các Anh Chị còn trẻ trung quá. Em xin góp 1 câu chuyện: Trưa hôm đó, đang giờ nghỉ trưa, 1 em đồng nghiệp chụp hình lúc em đang gục đầu xuống bàn ngủ, chụp xong em ấy hét lên 1 tiếng, cả phòng ai cũng giật mình, em ấy đưa tấm hình cho mọi người xem, ai cũng trợn tròn mắt và tỏ vẻ sợ sệt, nhìn em chăm chăm, và tất cả vội vàng chạy ào ra khỏi phòng để lại cái điện thoại với tấm hình còn nguyên trong máy. Tò mò… em chạy qua bàn em ấy lấy điện thoại lên xem… xem xong em cũng chạy ra luôn… Vừa chạy ra đến cửa, thấy các em đang đứng túm tụm lại và cười mĩm chi, mắt liếc qua liếc lại, vừa thấy em cả đám cười ồ lên… Ôi! mắc cỡ quá! Các em đồng nghiệp chọc em, thì ra các em sử dụng ứng dụng chụp hình 360độ làm hiện lên sau lưng em hình một bóng người đang ngồi đó. Sợ quá! một phen hú hồn vừa mắc cỡ. Nhưng nhìn vẫn rất sợ và phải xóa hình ngay lập tức.
Vậy là em Bích Đào đã rinh cái nghĩa trang cùng với anh Trúc vào cơ quan của em nó rồi nhưng mà mọi người khg sợ còn Bích Đào lại cười là sao ta! chắc tại nhìn mặt đại ca đẹp trai nên bị ma nhát mắc cười rồi…